(KHCN)-GS Võ Quý sinh năm 1929, tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông công tác tại Đại học Tổng hợp Hà Nội (sau thành Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngoài ra, ông còn giảng tại Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Nông nghiệp... và Đại học Wiscosin, California Berkley (Mỹ), Đại học Oxford (Anh)...
Ông là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng Vườn quốc gia và Khu bảo tồn quốc tế (WCPA/IUCN), Hội đồng quốc tế về Bảo vệ các loài nguy cấp (SSC/IUCN).
Sự am hiểu về loài chim đã khiến ông quyết định đánh giá tác động chất độc hoá học (đioxin) đối với Việt Nam dựa trên sự tồn tài của cloài chim. Vì ông hiểu nơi nào có chim thì nơi đó có sự sống. Những hình ảnh do ông ghi lại về những cánh rừng rộng lớn chết khô vì chất độc da cam, quang cảnh hoang vắng, không một tiếng chim kêu đã thuyết phục cả thế giới về tác động khủng khiếp của chất độc da cam đối với môi trường nước ta.
Đến nay, GS.Võ Quý đã cùng các đồng nghiệp, học trò lập hồ sơ thông tin cho hơn 1.000 loài và phân loài chim ở nước ta. Ông viết 14 cuốn sách về chim như: "Chim Việt Nam" (tập 1, 2), "Cuộc sống các loài chim", "Danh mục các loài chim Việt Nam"...; là dịch giả chính của 3 cuốn sách về môi trường đồng thời cũng là tác giả của hơn 100 công trình khoa học đã công bố trong nước và nước ngoài. Vì vậy, nhà khoa học xuất sắc này được đồng nghiệp và học trò yêu mến gọi là "GS.chim"
GS. Võ Quý là đồng sáng lập và Phó chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm hai Chương trình quốc gia về môi trường từ năm 1981 đến năm 1990. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc đề xuất các chính sách phát triển bền vững như thành lập các khu bảo tồn và thúc đẩy Việt Nam tham gia các thoả thuận quốc tế bảo tồn đa dạng sinh học. Ông cũng là người biên tập và là đồng tác giả của bản thảo đầu tiên về Chiến lược bảo vệ môi trường và Luật bảo về môi trường.
Bằng những nghiên cứu xuất sắc của mình và các cộng sự, GS Võ Quý đã được trao tặng rất nhiều phần thưởng quý giá: Huy chương vàng về thành tích bảo vệ động vật hoang dã và xây dựng khu bảo vệ thiên nhiên do Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF) trao tặng (1988). Ông là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất cho đến ngày hôm nay nhận bằng Danh dự Global 500 của Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (1992).
Ông nhận huy chương John Philipps của Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (IUCN) và giải thưởng hạng nhất của Đức về bảo vệ môi trường sinh thái (1994); nhận giải thưởng về môi trường của Trường đại học Michigan, Hoa Kỳ (1995).
Năm 2003, ông nhận phần thưởng "Hành tinh xanh" do tổ chức ASAH (Nhật Bản) trao tặng với những giải pháp cải tạo môi trường thế giới và dự báo về sự phát triển môi trường trong tương lai. Trị giá giải thưởng là 50 triệu yên, tương đương 6 tỷ đồng Việt Nam. Đây là một giải thưởng quốc tế lớn nhất về môi trường, có giá trị tương đương với giải thưởng Nobel (vì Nobel không có phần thưởng dành cho môi trường) được trao cho những cá nhân và tổ chức đã có thành tích nổi bật trong lĩnh vực này. Ông còn là một trong 35 nhà khoa học được bầu chọn là Anh hùng môi trường theo Tạp chí Time, Hoa Kỳ (2008)…
TH